EU “an ninh hóa” quan hệ với Trung Quốc và lộ trình hợp tác song phương (phần cuối)
29/07/2025 01:20:35
1 lượt xem
Tin nhanh tham khảo
EU “AN NINH HÓA” QUAN HỆ VỚI TRUNG QUỐC VÀ LỘ TRÌNH HỢP TÁC SONG PHƯƠNG
(Phần cuối)
Giới hạn của việc EU an ninh hóa quan hệ với Trung Quốc Xét từ nguồn gốc lịch sử, việc EU an ninh hóa quan hệ đối với Trung Quốc tuân theo trật tự chính trị-kinh tế thế giới do Mỹ thiết lập sau Chiến tranh thế giới thứ hai, phụ thuộc vào sự phân công chuỗi công nghệ và công nghiệp toàn cầu do Mỹ lãnh đạo. Trong bối cảnh có 23 quốc gia cùng là thành viên Tổ chức hiệp ước Bắc Đại Tây Dương NATO, quyết định chiến lược đối ngoại của EU chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng bởi mối quan hệ xuyên Đại Tây Dương. Sự suy giảm tương đối sức mạnh tổng hợp của Mỹ và sự trỗi dậy của các quốc gia Nam bán cầu đã thúc đẩy EU theo đuổi tự chủ chiến lược. Sự tự chủ chiến lược của EU cũng phản ánh sự thay đổi trong cấu trúc chính trị-kinh tế toàn cầu. Xét về bản chất của EU, với tư cách là một tổ chức khu vực có mức độ nhất thể hóa cao, việc EU an ninh hóa quan hệ với Trung Quốc là biểu hiện tổng hợp của quá trình đấu tranh lợi ích đa dạng bên trong và phản ứng trước áp lực bên ngoài. Các yêu cầu lợi ích đa dạng từ nhiều chủ thể khó có thể tạo thành một lập trường thống nhất, điều này cũng quyết định giới hạn của việc EU an ninh hóa quan hệ với Trung Quốc.
Thứ nhất, sự thay đổi trong tương quan thực lực giữa Trung Quốc và EU là một góc nhìn quan trọng để quan sát giới hạn việc EU an ninh hóa quan hệ với Trung Quốc. Trong một khoảng thời gian dài, Trung Quốc và EU đã hình thành trạng thái hỗ trợ tốt đẹp trên các phương diện như thị trường, công nghệ, chuỗi công nghiệp và yếu tố nhân lực. Đến năm 2024, Trung Quốc và EU là đối tác thương mại lớn thứ hai của nhau, tổng giá trị thương mại song phương vượt quá 50.000 tỷ nhân dân tệ, chiếm khoảng 13% tổng giá trị thương mại của Trung Quốc. Mặc dù có sự bất đồng về các vấn đề như nhân quyền, nhưng quan hệ kinh tế-thương mại đóng vai trò trụ cột, và những bất đồng cũng như cạnh tranh trong quan hệ EU-Trung Quốc đã được kiểm soát hiệu quả.
Thực tiễn hiện đại hóa kiểu Trung Quốc thành công đã dẫn dắt sự phát triển của các quốc gia Nam bán cầu, và sự trỗi dậy tập thể của các quốc gia này đang định hình lại trật tự chính trị-kinh tế quốc tế, EU dần nhận ra rằng lợi thế công nghệ và công nghiệp của mình đã giảm sút đáng kể, cố gắng hạn chế sự tăng trưởng thương mại và đầu tư của Trung Quốc bằng cách cản trở sự tiến bộ về công nghệ của nước này. Tuy nhiên, EU vẫn thu được lợi ích lớn từ các giao dịch thương mại với Trung Quốc, đồng thời cũng cần hợp tác với Trung Quốc trong các lĩnh vực như năng lượng xanh.
Do đó, “ba tầng định vị” trong quan hệ với Trung Quốc phản ánh đầy đủ tâm lý phức tạp và mâu thuẫn của EU: Cân nhắc dựa trên lợi ích thực tế, EU tiếp tục hợp tác với Trung Quốc trong một số lĩnh vực, nhưng do lo ngại về sự suy giảm về thực lực cũng như ảnh hưởng của mình, lại coi Trung Quốc là đối thủ cạnh tranh. Sự bất đồng và cạnh tranh trong các vấn đề cụ thể không thể làm thay đổi nền tảng cơ bản của quan hệ EU-Trung Quốc, định vị chính xác quan hệ EU-Trung Quốc phải là đối tác với hợp tác làm chủ đạo.
Thứ hai, trong quá trình thế giới đang tiến nhanh tới đa cực, giới hạn của việc EU an ninh hóa quan hệ với Trung Quốc phụ thuộc vào mức độ thích ứng với sự chuyển đổi giữa trật tự chính trị-kinh tế cũ và mới. Ví dụ, EU và các quốc gia châu Âu lớn đã lần lượt ban hành “chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương” với trọng tâm khác nhau, nhằm củng cố và mở rộng mạng lưới quan hệ đối tác xung quanh Trung Quốc. Tuy nhiên, chiến lược đàm phán thương mại tự do “hướng tới quy chuẩn” của EU đang gặp khó khăn lớn trong bối cảnh cơ chế thương mại khu vực phức tạp và cạnh tranh tại Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.
Ngày 19/4/2021, Hội đồng ngoại trưởng EU đã ban hành văn kiện kết luận về chiến lược hợp tác khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, cam kết sẽ tìm kiếm các hiệp định thương mại tự do với Australia, Indonesia và New Zealand, nhưng cho đến nay chỉ ký kết hiệp định thương mại tự do với Việt Nam, Singapore và New Zealand. Do đó, trong bối cảnh hội nhập vào tiến trình kinh tế khu vực mới diễn ra chậm, giữ vững thị trường nội địa trở thành lựa chọn tất yếu của EU, khối này tranh thủ thời gian chuyển đổi để gia tăng quân bài mặc cả thông qua việc an ninh hóa các vấn đề kinh tế-công nghệ, ví dụ, ngăn chặn thiết bị viễn thông, sản phẩm năng lượng mặt trời và ô tô điện của Trung Quốc vào thị trường nội địa EU. Ngày 29/10/2024, EC đã ban hành văn kiện về kết quả điều tra chống trợ cấp đối với ô tô điện thuần túy nhập khẩu từ Trung Quốc, quyết định áp dụng thuế chống trợ cấp cuối cùng trong 5 năm đối với ô tô điện nhập khẩu từ Trung Quốc.
Bên cạnh đó, trong bối cảnh khả năng tự nghiên cứu phát triển còn hạn chế, việc chia sẻ công nghệ có thể nhanh chóng giảm chi phí nghiên cứu phát triển và nâng cao trình độ công nghệ cũng như năng lực cạnh tranh của mình, EU có xu hướng giảm mức độ an ninh hóa trong lĩnh vực công nghệ này. Đến cuối năm 2024, tổng đầu tư xây dựng pin của CATL (tập đoàn pin của Trung Quốc) tại Tây Ban Nha, Đức và Hungary đã đạt hơn 13 tỷ euro. Nhờ đạt "Chứng nhận xuất xứ EU", các xe sử dụng pin CATL giúp giảm một nửa lượng carbon đối với các hãng xe châu Âu.
Thứ ba, mức độ nghiêm trọng của xung đột địa chính trị ảnh hưởng đến mức độ an ninh hóa quan hệ của EU đối với Trung Quốc. EU từng tự định vị bản thân là “sức mạnh dân sự” và “sức mạnh chuẩn mực” có lợi thế sức mạnh mềm trong cộng đồng quốc tế, thực tiễn quan hệ đối ngoại của họ chủ yếu dựa trên chủ nghĩa đa phương, giữ khoảng cách nhất định với an ninh truyền thống và cạnh tranh địa chính trị. Tuy nhiên, sự bùng nổ của cuộc khủng hoảng Ukraine đã làm tăng đáng kể nhận thức của EU về khủng hoảng địa chính trị. Trong những năm gần đây, EU đã chú ý hơn đến các vấn đề cạnh tranh địa chính trị và cho thấy sự chuyển hướng an ninh hóa trong các chương trình nghị sự nội chính và đối ngoại, ví dụ, gắn lập trường của Trung Quốc về cuộc khủng hoảng Ukraine với quan hệ song phương Trung Quốc-EU. Tháng 12/2024, EU đã đưa một số doanh nghiệp và cá nhân Trung Quốc vào danh sách “trừng phạt toàn diện” của vòng trừng phạt thứ 15 đối với Nga, đây là lần đầu tiên EU thực hiện đóng băng tài sản, cấm du lịch và hạn chế giao dịch tài chính đối với các thực thể Trung Quốc, đánh dấu sự chuyển đổi của bản chất trừng phạt từ “chống lách luật” sang “gây sức ép trực tiếp”.
Thứ tư, sự điều chỉnh của quan hệ 3 bên Mỹ-Trung Quốc-EU tác động đến xu hướng an ninh hóa quan hệ của EU đối với Trung Quốc. Trong những năm gần đây, Mỹ đã thổi phồng “mối đe dọa an ninh” từ Trung Quốc trên mọi phương diện và yêu cầu EU phải đồng bộ với Mỹ trong chiến lược đối với Trung Quốc để tăng cường ảnh hưởng chiến lược đối với Trung Quốc. EU dựa trên nhu cầu của mình về thực lực cũng như duy trì quan hệ xuyên Đại Tây Dương, đã điều chỉnh định vị đối với Trung Quốc, phối hợp với Mỹ trong việc áp dụng trừng phạt đối với các công ty công nghệ cao như ZTE và Huawei. Văn kiện “Chiến lược hợp tác của EU ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương” ban hành tháng 9/2021 đã đánh dấu sự chuyển dịch trọng tâm địa chính trị của EU sang khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Chiến lược này nhấn mạnh việc xây dựng các mối liên kết trong và ngoài Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương thông qua quan hệ đồng minh và đối tác, thể hiện sự nhất quán của EU với Mỹ trong một phần kế hoạch chiến lược tại khu vực này.
Tuy nhiên, Trump trong nhiệm kỳ hai một lần nữa phát động cuộc chiến thuế quan và cuộc chiến thương mại để giải quyết vấn đề nợ trong nước. Hành động của Mỹ đe dọa áp thuế 50% đối với một số sản phẩm của EU đã khiến khối này thực sự từ lợi ích kinh tế, điều chỉnh lại chiến lược đối ngoại, trong đó bao gồm việc “giảm an ninh hóa” một số chính sách đối với Trung Quốc. Chẳng hạn, tiếp tục đàm phán với Trung Quốc về vấn đề thuế đối với xe điện, xem xét khởi động lại đàm phán về Hiệp định đầu tư toàn diện Trung Quốc-EU. Những động thái mới này không chỉ là hành động của EU nhằm tăng cường quân bài đàm phán với Mỹ, mà còn là cơ hội mới để thúc đẩy giao lưu và hợp tác sâu rộng với Trung Quốc. Do đó, sự rạn nứt thương mại Mỹ-EU ngày càng sâu sắc, buộc EU phải hành động từ lợi ích của mình, trong một mức độ nhất định, điều chỉnh quan hệ thương mại với Trung Quốc, từ việc mù quáng đi theo Mỹ trong việc gây sức ép đối với một số doanh nghiệp Trung Quốc chuyển sang linh hoạt khám phá con đường hợp tác kinh tế-thương mại cùng có lợi giữa Trung Quốc và EU.
Đường lối hợp tác EU-Trung Quốc trong bối cảnh EU an ninh hóa quan hệ với Trung Quốc Hiện tại, quan hệ EU-Trung Quốc đang đối mặt với tình hình khá phức tạp. Một mặt, EU ngày càng đưa các vấn đề hợp tác với Trung Quốc vào góc nhìn an ninh, từ công nghệ, thương mại đến hợp tác thể chế thể hiện xu hướng an ninh hóa rõ rệt. Mặt khác, chính sự an ninh hóa này cũng có giới hạn, vừa bị ràng buộc bởi thực tế phụ thuộc sâu sắc và bổ sung lẫn nhau về thương mại giữa Trung Quốc và EU, vừa bị ảnh hưởng bởi sự căng thẳng giữa nhu cầu tự chủ chiến lược của EU và sự phụ thuộc vào Mỹ. Trong khi đó, Trung Quốc luôn coi EU là một cực quan trọng trong thế giới đa cực, cho rằng Trung Quốc và EU có không gian hợp tác lớn trong nhiều vấn đề quốc tế, là đối tác hợp tác quan trọng để đạt được quản trị toàn cầu hiệu quả, điều này mang lại bảo đảm quan trọng cho sự phát triển ổn định và lâu dài của quan hệ EU-Trung Quốc. Trong bối cảnh biến động lớn chưa từng có trong một thế kỷ qua, trật tự thế giới đang trải qua những thay đổi mạnh mẽ, Trung Quốc và EU, như những lực lượng quan trọng thúc đẩy sự phát triển đa cực của thế giới, cần tăng cường hơn nữa sự tin cậy lẫn nhau, làm sâu sắc hơn hợp tác thiết thực trong mọi lĩnh vực lấy kinh tế-thương mại và đầu tư làm trọng tâm, thông qua hợp tác Trung Quốc-EU, có thể tiếp thêm năng lượng tích cực vào hòa bình và phát triển của thế giới.
Thứ nhất, tăng cường lòng tin chính trị và chiến lược giữa hai bên, thúc đẩy sự điều chỉnh tích cực nhận thức của EU về Trung Quốc. Việc EU an ninh hóa quan hệ với Trung Quốc về bản chất là một quá trình xây dựng nhận thức, tức là các lĩnh vực phi an ninh bị gán nhãn “khó đoán định về chiến lược” do “nghi ngờ ý định” và “khác biệt thể chế”. Nguyên nhân của việc an ninh hóa không chỉ nằm ở xung đột lợi ích mà còn ở sự sai lệch trong nhận thức chiến lược. EU, do bản năng bảo vệ vị thế hiện có, đã hiểu sai sự phát triển của Trung Quốc là một thách thức đối với an ninh của mình, từ đó bỏ qua không gian hợp tác tiềm năng giữa Trung Quốc và EU trong quản trị toàn cầu và hợp tác Nam-Nam.
Do đó, việc thúc đẩy quan hệ EU-Trung Quốc phát triển tốt đẹp không những nằm ở việc nâng cao ý chí hợp tác mà còn ở việc xây dựng lại nhận thức của EU về Trung Quốc, tăng cường lòng tin chính trị giữa 2 bên. Để xây dựng lại nhận thức này, Trung Quốc và EU nên tăng cường đối thoại và trao đổi đa tầng nấc trong các lĩnh vực như văn hóa, khoa học công nghệ và quản trị khí hậu, trên cơ sở hợp tác chiến lược chặt chẽ, lấy phát triển làm trung tâm, thúc đẩy “giảm an ninh hóa” trong nhận thức của EU về Trung Quốc. Cụ thể, Trung Quốc nên phát huy đầy đủ các phương tiện truyền thông đa dạng như truyền thông chính thống, giao lưu nhân dân, hội thảo của các viện nghiên cứu…, bắt đầu từ các vấn đề an ninh phi truyền thống như quản trị khí hậu, kinh tế số, tài chính phát triển…, tăng cường sự hiểu biết chính sách của EU về Trung Quốc, thu hẹp những khác biệt giữa 2 bên. Đồng thời, Trung Quốc nên tăng cường “truyền thông chủ động”, tăng cường giao tiếp và kết nối giữa 2 bên trong các lĩnh vực như tiêu chuẩn xanh, quy định công nghiệp… nhằm xóa bỏ những chủ đề tiêu cực như “đối thủ thể chế”. Trung Quốc cũng có thể tận dụng các dự án hợp tác hiện có giữa hai bên tại khu vực Nam bán cầu như châu Phi và Mỹ Latinh, để dẫn dắt sự nhận thức và xây dựng lại vai trò đối tác của EU đối với Trung Quốc, thúc đẩy sự điều chỉnh tích cực trong nhận thức chiến lược của EU về Trung Quốc.
Thứ hai, củng cố vai trò trụ cột của kinh tế-thương mại, làm sâu sắc hợp tác thực chất giữa Trung Quốc và EU. Kể từ khi thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, mặc dù quan hệ giữa hai bên đôi khi gặp trắc trở, nhưng mối liên kết thương mại luôn đóng vai trò như một cột trụ quan trọng đảm bảo sự phát triển ổn định của quan hệ EU-Trung Quốc. Trong những năm gần đây, quan hệ giữa hai bên thực sự đã thể hiện xu hướng như vậy. Mặc dù quan hệ giữa EU và Trung Quốc trong các lĩnh vực thương mại và công nghệ đang có xu hướng an ninh hóa, ngày càng thắt chặt về sàng lọc, đầu tư doanh nghiệp và kiểm soát xuất khẩu, nhưng khả năng bổ sung cao giữa hai bên về tài nguyên, đổi mới công nghệ và cơ cấu công nghiệp vẫn không mất đi, vẫn còn nhiều không gian hợp tác trong quá trình chuyển đổi kép xanh-số hóa giữa Trung Quốc và EU.
Trước hết, EU phụ thuộc rất nhiều vào nhập khẩu các nguyên liệu thô quan trọng, trong khi Trung Quốc sở hữu khoảng 90% khả năng chế biến nam châm đất hiếm toàn cầu, đây là nguyên liệu cốt lõi cho các ngành công nghiệp như ô tô, động cơ điện và bán dẫn. Hai là, hai bên vẫn còn không gian hợp tác trong đổi mới công nghệ. Tháng 4/2025, Trung Quốc và EU đã chính thức ký “Bản ghi nhớ hợp tác công nghệ xanh”, hai bên tập trung vào các lĩnh vực công nghệ xanh mới nổi như năng lượng hydro và thu giữ carbon, cùng đầu tư 15 tỷ euro để xây dựng liên minh nghiên cứu phát triển công nghệ xanh xuyên quốc gia lớn nhất thế giới. Trong tương lai, hai bên có thể tăng cường hơn nữa việc cùng nghiên cứu và phát triển các công nghệ tiên tiến thông qua hợp tác thể chế. Ba là, về cơ cấu công nghiệp, Trung Quốc duy trì vị trí dẫn đầu trong việc tích hợp xe năng lượng mới và sản xuất pin, trong khi EU có lợi thế về các quy định và thể chế như dịch vụ tài chính xanh và tiêu chuẩn sản xuất hiện đại. Sáng kiến “Vành đai và Con đường” của Trung Quốc và kế hoạch “Cửa ngõ toàn cầu” của EU cũng có những khu vực giao thoa. Hai bên có thể đạt được sự bổ sung công nghiệp trong các dự án năng lượng mới như pin và ô tô điện. Theo thống kê, năm 2023, xe điện nhập khẩu từ Trung Quốc chiếm 38% thị phần tại thị trường châu Âu, trong khi CATL nắm giữ tới 35% thị phần pin ở châu Âu. Cuối cùng, về thị trường bên thứ ba, Trung Quốc có thể dẫn dắt EU kết nối với Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) và thị trường Nam bán cầu, thúc đẩy kết nối chiến lược phát triển. Trong hợp tác cụ thể, tận dụng lợi thế của cả hai bên để tìm kiếm mô hình phát triển hợp tác, phát huy tối đa hiệu ứng hợp tác.
Thứ ba, dưới sự dẫn dắt của chủ nghĩa đa phương, tăng cường hợp tác giữa hai bên trong lĩnh vực quản trị toàn cầu. Chủ tịch Tập Cận Bình đã chỉ ra: “Trung Quốc và EU không có mâu thuẫn lợi ích cơ bản, cũng không có mâu thuẫn địa chính trị, mà là những đối tác hỗ trợ lẫn nhau”. Quản trị toàn cầu theo đường lối chủ nghĩa đa phương có thể cung cấp cho Trung Quốc và EU một nền tảng hợp tác có tính thể chế hơn. Trung Quốc và EU có thể thông qua việc cùng nhau ủng hộ và thực hành chủ nghĩa đa phương thực sự, hợp lực bảo vệ hệ thống thương mại đa phương và cơ chế quản trị đa phương quốc tế, củng cố quan hệ hợp tác trong thực tiễn. Hai bên có thể dựa trên những đồng thuận trong quản trị khí hậu, khủng hoảng lương thực và y tế công cộng, lấy việc xây dựng khuôn khổ hợp tác quản trị toàn cầu mới làm cơ hội, cùng nhau phản đối chủ nghĩa bảo hộ, bảo vệ hệ thống thương mại đa phương. Đồng thời, EU và Trung Quốc cũng có thể hợp tác thúc đẩy chuyển đổi xanh và carbon thấp, cung cấp hàng hóa công toàn cầu trong các cơ chế quản trị đa phương toàn cầu như Liên hợp quốc, Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới (G20)…
Trong quá trình cùng nhau ứng phó với các thách thức toàn cầu, thúc đẩy EU nhận thức lại về ý chí và khả năng hợp tác với Trung Quốc, tăng cường hợp tác về các vấn đề cụ thể. Tháng 3, nhân dịp kỷ niệm 10 năm ký Hiệp định Paris, Trung Quốc và Pháp đã ra tuyên bố chung về biến đổi khí hậu, khẳng định cam kết tăng cường hợp tác quốc tế về biến đổi khí hậu và cung cấp các giải pháp ứng phó hợp lý trong khuôn khổ đa phương. Tháng 5, EU và Trung Quốc đã tổ chức tham vấn về các vấn đề biến đổi khí hậu, hai bên xuất phát từ những vấn đề dễ đạt được đồng thuận như biến đổi khí hậu và môi trường sinh thái, nhất trí tiến hành đối thoại chính sách thực chất hơn và mở rộng hợp tác đa phương. Trong tương lai, EU và Trung Quốc có thể tiếp tục tăng cường phối hợp chính sách xung quanh việc cung cấp hàng hóa công quốc tế, lấy hợp tác cùng có lợi làm trọng tâm, giảm thiểu tổn thất kinh tế và các tác động tiêu cực khác do một số vấn đề bị an ninh hóa gây ra, thúc đẩy quan hệ song phương phát triển ổn định và lành mạnh.
Trong tương lai, Trung Quốc và EU cần tìm cách để quan hệ song phương không bị ảnh hưởng bởi yếu tố Mỹ và không bị dao động, lặp lại giữa an ninh hóa và phi an ninh hóa. Quan hệ EU-Trung Quốc phát triển ổn định và tích cực cần tập trung vào lợi ích chung, phát huy lợi thế so sánh, tìm kiếm con đường hợp tác thiết thực, từng bước tích lũy lòng tin chính trị, tăng cường sức bền của quan hệ song phương, cùng nhau ứng phó với những rủi ro và thách thức toàn cầu ngày càng gia tăng, đồng thời thúc đẩy và dẫn dắt tiến trình quản trị toàn cầu liên quan đến sự sống còn và an ninh của toàn nhân loại, mang lại nhiều sự chắc chắn hơn cho một thế giới nhiều bất ổn./.
HẾT