Thỏa thuận thương mại Mỹ-EU: "Cứu cánh" hay cam kết hão huyền?
29/07/2025 13:00:52
4 lượt xem
Tin nhanh tham khảo
Thỏa thuận thương mại Mỹ-EU: "Cứu cánh" hay cam kết hão huyền?
Reuters/Đài Sputnik/Đài RFI (Ngày 28/7)
Ngày 27/7, Mỹ và Liên minh châu Âu (EU) đã đạt được một thỏa thuận thương mại khung, theo đó, Mỹ sẽ áp thuế 15% đối với hầu hết hàng hóa từ EU. Ngoài ra, EU cam kết sẽ chi 250 tỷ USD mỗi năm để mua năng lượng Mỹ - bao gồm dầu mỏ, khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) và công nghệ hạt nhân - trong vòng 3 năm tới.
Chủ tịch Ủy ban châu Âu Ursula von der Leyen, phát biểu trong một cuộc họp báo cho rằng đây là “thỏa thuận tốt” vào lúc ngày hạn định 1/8 đến gần. Nếu không có được thỏa thuận này, kể từ đầu tháng 8 tới, hàng hóa EU nhập khẩu Mỹ phải chịu mức thuế là 30%, và có thể lên đến 50% hay 200% đối với các loại sản phẩm đồng hay dược phẩm và linh kiện bán dẫn.
Cam kết phi lý Tuy nhiên, các nhà phân tích cho rằng cam kết về năng lượng của EU là không thực tế. Theo dữ liệu của Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ, tổng kim ngạch xuất khẩu năng lượng của Mỹ sang tất cả các đối tác trên toàn thế giới trong năm 2024 đạt 318 tỷ USD. Trong đó, theo dữ liệu từ Cơ quan Thống kê EU (Eurostat), EU đã nhập khẩu tổng cộng 76 tỷ USD dầu mỏ, LNG và nhiên liệu rắn (như than đá) từ Mỹ.
Kirill Lysenko - chuyên gia phân tích cấp cao về xếp hạng chủ quyền và khu vực của hãng Expert RA - nhận định: “Thỏa thuận tăng nhập khẩu năng lượng từ Mỹ lên 250 tỷ USD mỗi năm gần như không thể thực hiện được. Thỏa thuận này ngụ ý các nhà sản xuất năng lượng Mỹ phải tăng mạnh công suất của họ một cách nào đó để nâng tổng khối lượng xuất khẩu lên gần 1,6 lần”. Hơn nữa, EU sẽ phải tăng hơn 3 lần lượng nhập khẩu năng lượng từ Mỹ và đẩy tỷ trọng năng lượng Mỹ lên tới 2/3 tổng nhập khẩu, bất chấp mọi thỏa thuận ký kết với các quốc gia khác.
Đồng quan điểm, Arturo Regalado, nhà phân tích LNG cấp cao tại công ty tư vấn năng lượng Kpler, cho rằng phạm vi thương mại năng lượng được hình dung trong thỏa thuận "vượt quá thực tế thị trường". Ông nói: "Lượng dầu xuất khẩu của Mỹ sẽ cần phải chuyển hướng hoàn toàn sang EU để đạt được mục tiêu, hoặc giá trị nhập khẩu LNG từ Mỹ sẽ cần phải tăng gấp 6 lần”.
Xuất khẩu năng lượng của Mỹ cũng đang chịu sự cạnh tranh mạnh mẽ vì các quốc gia khác cũng cần nguồn cung và đã cam kết mua nhiều hơn qua các thỏa thuận thương mại. Sự cạnh tranh này đối với năng lượng của Mỹ có thể đẩy giá dầu và khí đốt của Mỹ lên cao, đồng thời khuyến khích các nhà sản xuất Mỹ ưu tiên xuất khẩu hơn là cung cấp cho thị trường trong nước. Điều này có thể khiến chi phí nhiên liệu và điện trở nên đắt đỏ hơn, khiến các nhà lãnh đạo Mỹ và EU phải “đau đầu” để giải quyết các vấn đề về chính trị và kinh tế.
EU ước tính các kế hoạch mở rộng năng lượng hạt nhân của các nước thành viên sẽ cần hàng trăm tỷ euro đầu tư vào năm 2050. Tuy nhiên, dữ liệu thương mại cho thấy nhập khẩu liên quan đến lò phản ứng hạt nhân của khối này chỉ đạt tổng cộng 53,3 tỷ euro (khoảng 61,8 tỷ USD) vào năm 2024.
Theo một quan chức cấp cao của EU, cam kết về năng lượng này phản ánh phân tích của EU về lượng năng lượng Mỹ mà họ có thể tiếp nhận, nhưng điều đó sẽ còn phụ thuộc vào các khoản đầu tư cho cơ sở hạ tầng dầu và LNG của Mỹ, cơ sở hạ tầng nhập khẩu của châu Âu và năng lực vận chuyển. Quan chức này cho biết thêm, không có cam kết công khai về việc giao hàng, bởi không phải EU mà là chính các công ty của họ mới là bên phải mua năng lượng.
Việc nhập khẩu khí đốt ở châu Âu là sự kết hợp giữa các doanh nghiệp tư nhân và các công ty nhà nước, trong khi phần lớn dầu mỏ lại do các công ty tư nhân chịu trách nhiệm nhập khẩu. Ủy ban châu Âu có thể tổng hợp nhu cầu LNG để đàm phán các điều khoản tốt hơn, nhưng không thể buộc các công ty phải mua nhiên liệu. Đó là một quyết định mang tính thương mại.
Các nhà phân tích của công ty tư vấn ICIS Andreas Schröder và Ajay Parmar nhận định: "Điều đó đơn giản là không thực tế. Hoặc châu Âu phải trả một mức giá siêu cao không phản ánh đúng thị trường LNG của Mỹ, hoặc họ sẽ phải lấy quá nhiều LNG - nhiều hơn khả năng của họ”.
Theo dữ liệu của EU, Mỹ hiện là nhà cung cấp LNG và dầu hàng đầu của EU, cung cấp 44% nhu cầu LNG và 15,4% nhu cầu dầu của EU vào năm 2024.
Jacob Mandel, trưởng bộ phận nghiên cứu tại công ty tư vấn Aurora Energy Research, cho biết việc tăng nhập khẩu để đạt được mục tiêu sẽ đòi hỏi Mỹ phải mở rộng việc cung cấp LNG vượt xa những gì đã được lên kế hoạch cho đến năm 2030. Mandel nói: "Bạn có thể tăng cường năng lực, nhưng nếu bạn đang nói về quy mô cần thiết để đạt được các mục tiêu 250 tỷ USD này, điều đó thực sự không khả thi”. Theo ông, châu Âu chỉ có thể mua thêm 50 tỷ USD LNG của Mỹ hàng năm khi nguồn cung tăng lên.
Tác động đến Nga và chuỗi cung ứng toàn cầu EU cho biết họ có thể nhập khẩu nhiều năng lượng hơn từ Mỹ khi kế hoạch nhập khẩu dầu và khí đốt từ Nga của khối này chấm dứt vào năm 2028.
Chuyên gia thị trường chứng khoán Kirill Seleznev của công ty quản lý đầu tư Garda Capital cho rằng thỏa thuận thương mại giữa Mỹ và EU sẽ thay đổi địa lý cung cấp năng lượng trên thế giới, nhưng sẽ có tác động tối thiểu đến Nga. Seleznev nhận định: “Tác động đối với Nga, nếu có, sẽ là gián tiếp. Châu Âu có thể sẽ thay đổi đôi chút địa lý cung cấp năng lượng, và điều này sẽ làm thay đổi chuỗi cung ứng toàn cầu. Ví dụ, tỷ trọng năng lượng từ Mỹ sẽ tăng ở EU và giảm ở Trung Đông”. Đồng thời, châu Á sẽ mua ít hơn từ nước Mỹ, nhưng sẽ mua nhiều hơn từ Trung Đông. Ông khẳng định: “Giá cả có thể thay đổi đôi chút, tùy thuộc vào chi phí hậu cần. Nga đã và đang cung cấp cho Ấn Độ và Trung Quốc, và sẽ tiếp tục như vậy”.
Theo dữ liệu của EU, khối này đã nhập khẩu khoảng 94 triệu thùng dầu của Nga - chiếm 3% lượng mua dầu thô của khối - và 52 tỷ mét khối (bcm) LNG và khí đốt của Nga vào năm 2024. Cùng năm đó, EU mới chỉ nhập khẩu 45 bcm LNG của Mỹ. Tuy nhiên, các nhà phân tích cho rằng việc EU tăng mua nhiên liệu sẽ đi ngược lại các dự báo rằng nhu cầu năng lượng của khối sẽ giảm khi họ chuyển đổi sang năng lượng sạch. Schröder và Parmar nhận định: "EU không có nhu cầu lớn để nhập khẩu thêm dầu từ Mỹ, thực tế, nhu cầu dầu của khối đã đạt đỉnh từ vài năm trước”.
Lý do nhượng bộ Về lý do tại sao EU lại đồng ý thông qua một thỏa thuận như vậy, chuyên gia Kirill Lysenko nhấn mạnh: “Ở một số điểm, có lẽ EU cố tình tỏ ra như bên thua cuộc để giành thêm thời gian”. Ông cho biết rất có thể các nhà đàm phán châu Âu, khi chấp nhận nhượng bộ, kỳ vọng tái hiện kịch bản thỏa thuận giữa Mỹ và Trung Quốc trong nhiệm kỳ đầu của Tổng thống Mỹ Donald Trump: cam kết tăng khối lượng nhập khẩu để làm dịu căng thẳng thương mại, sau đó không thực hiện đúng cam kết và chờ đợi một chính quyền mới dễ dàn xếp hơn lên nắm quyền.
Tuy nhiên, mức thuế 15% đối với hàng xuất khẩu của EU lại cao đáng kể so với mức thuế trung bình trước đây là 2,5%. Lysenko cho rằng việc áp thuế này trong tương lai gần sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng cạnh tranh của hàng hóa châu Âu trên thị trường Mỹ. Trong khi đó, giáo sư ngành Kinh tế học Thierry Meyer tại Đại học Khoa học Chính trị Sciences Po, cũng cho rằng khối 27 nước thành viên đã bỏ lỡ cơ hội bày tỏ thái độ cứng rắn và EU đã “không nhận thấy, không tận dụng thế mạnh mà họ có” khi nhìn vào quy mô của các nền kinh tế của khối.
Đối với nhật báo Le Monde, EU đã chọn một giải pháp ít đau đớn nhất: Một thỏa hiệp bất cân đối có lợi cho Mỹ hơn là nguy cơ đối đầu trong một cuộc chiến thương mại quy mô lớn mà không ai biết chắc lối thoát. Thỏa thuận này phản ảnh sự thu hẹp dần các tham vọng của khối, từ kế hoạch về khí hậu, cho đến việc thuyết phục Washington thiết lập vùng tự do mậu dịch xuyên Đại Tây Dương hay chí ít là một thỏa thuận thuế quan 10% như Anh đã có với chính quyền Trump.
Vấn đề lớn đang được đặt ra là liệu thỏa thuận này sẽ diễn biến thế nào tiếp theo. Mặc dù lãnh đạo châu Âu cảm thấy nhẹ nhõm vì đã đạt được thỏa thuận, giúp tránh được những thiệt hại lớn với mức thuế 15% trước mắt, nhưng họ vẫn lo lắng về sự khó đoán của Tổng thống Trump. EU lo ngại việc hôm nay ông ấy tuyên bố một thỏa thuận “lớn chưa từng có”, thì liệu ngày mai có thể lại đưa ra những lời đe dọa hoặc áp đặt thuế quan mới hay không. Dù sao, đối với Trump, đây được xem là một “thắng lợi chính trị” rõ ràng./.