Thái Lan phải định nghĩa lại FDI cho tương lai
19/08/2025 10:00:40
2 lượt xem
Tin nhanh tham khảo
Thái Lan phải định nghĩa lại FDI cho tương lai
TTXVN (Bangkok 15/8)
Báo Bangkok Post ngày 14/8 đăng bài viết của học giả Peerasit Kamnuansilpa, nhà sáng lập và cựu Hiệu trưởng trường Cao đẳng Hành chính địa phương, Đại học Khon Kaen, phân tích về nguyên nhân khiến đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) không trở thành đòn bẩy chiến lược cho phát triển quốc gia tại Thái Lan, đồng thời đề xuất những giải pháp để đưa Thái Lan vượt qua sự phụ thuộc, hướng tới khả năng phục hồi, tự lực cánh sinh và thịnh vượng chung. Dưới đây là nội dung bài viết:
Tương lai kinh tế của Thái Lan ngày càng trở nên bấp bênh. Từng là một ngôi sao đang lên trong số các thị trường mới nổi, giờ đây đất nước này đang phải đối mặt với tình trạng trì trệ dai dẳng. Một lý do chính nằm ở cách chúng ta coi FDI không phải là đòn bẩy chiến lược cho phát triển kinh tế quốc gia mà là một giải pháp ngắn hạn bị thúc đẩy bởi hành vi trục lợi, thông đồng quan liêu, và sự thất bại trong việc bảo vệ lợi ích kinh tế dài hạn của quốc gia cũng như các mục tiêu phát triển công bằng.
Nói một cách rõ ràng, FDI có thể là một động lực tăng trưởng mạnh mẽ. Tại nhiều nền kinh tế đang phát triển và mới nổi, FDI đã mang lại nguồn vốn mới, tạo việc làm, cải thiện năng suất và đóng vai trò là kênh dẫn dắt tiến bộ công nghệ. Đối với các quốc gia có hệ thống quản trị mạnh mẽ, cơ sở hạ tầng chất lượng và lực lượng lao động có trình độ, lợi ích thu được thường rất đáng kể. Trong trường hợp của Thái Lan, FDI đóng một vai trò quan trọng trong sự bùng nổ sản xuất trong những năm 1990 và đầu những năm 2000, giúp chuyển đổi năng lực xuất khẩu và kích thích tăng trưởng GDP.
Nhưng ngày nay, mô hình đó đang dần mai một. Lợi ích của FDI không còn được chia sẻ rộng rãi nữa. Thay vào đó, chúng ngày càng bị chi phối bởi một nhóm nhỏ giới tinh hoa, những người viện dẫn ngôn ngữ phát triển để biện minh cho các thỏa thuận chủ yếu phục vụ lợi ích riêng của họ.
Giấy phép cho các dự án đầu tư nước ngoài lớn - đặc biệt là trong lĩnh vực dầu khí, khí đốt tự nhiên, khai khoáng, khu công nghiệp và các khu phát triển kinh tế dựa trên vị trí như Hành lang Kinh tế phía Đông (EEC) - thường được các quan chức cấp cao phê duyệt, phối hợp chặt chẽ với các chính trị gia quyền lực.
Những phê duyệt này bị chỉ trích là không dựa trên các ưu tiên quốc gia hay thành tựu phát triển, mà dựa trên lợi ích chung với các nhà đầu tư nước ngoài. Kết quả là, các cơ hội liên doanh có thể xây dựng năng lực địa phương, chuyển giao bí quyết công nghệ và duy trì giá trị trong nước thường xuyên bị gạt sang một bên. Điều này có lẽ dễ thấy nhất trong lĩnh vực ô tô. Mặc dù Thái Lan tự hào là Detroit của châu Á, nhưng nước này vẫn chưa sản xuất được một thương hiệu ô tô quốc gia - không giống như Hàn Quốc (Hyundai và Kia), Malaysia (Proton), Ấn Độ (Tata) hay Việt Nam (VinFast).
Kết quả là một nghịch lý: Thái Lan sản xuất dầu nhưng lại phải trả tiền như thể nhập khẩu dầu. Chúng ta mua xăng với giá tham chiếu được ấn định tại Singapore, không phải vì chúng ta thiếu tài nguyên thiên nhiên, mà vì chúng ta thiếu quyền mặc cả, và quan trọng hơn, là thiếu ý chí chính trị để khẳng định lợi ích quốc gia. Sự mất cân bằng này phản ánh một vấn đề cấu trúc sâu xa hơn: các đặc quyền dành cho nhà đầu tư nước ngoài - từ miễn thuế, quyền sở hữu đất đai, cho đến việc tiếp cận tài nguyên thiên nhiên một cách tự do - đã dẫn đến cái mà một số người có thể gọi là một hình thức tân thực dân kinh tế.
Các nhà đầu tư từ một số quốc gia đã đạt được những lợi thế vượt xa những gì thường thấy ở các nền kinh tế ngang hàng. Đổi lại, Thái Lan đạt được rất ít lợi ích về lan tỏa công nghệ, duy trì giá trị nội địa hoặc năng lực đổi mới. Không giống như các quốc gia như Hàn Quốc, Singapore hay Việt Nam - một nền kinh tế đang phát triển nhanh chóng ở Đông Nam Á đã chuyển hướng FDI vào nâng cấp công nghiệp và phát triển lực lượng lao động - Thái Lan vẫn chưa xây dựng được năng lực hấp thụ cần thiết để đảm bảo đầu tư nước ngoài phục vụ lợi ích công cộng rộng lớn hơn. Điều này bao gồm các khoản đầu tư quan trọng vào giáo dục, cơ sở hạ tầng và cải cách thể chế.
Các nghiên cứu trên khắp các quốc gia đã tiếp nhận FDI luôn cho thấy hiệu quả của nó phụ thuộc phần lớn vào sự sẵn sàng của quốc gia tiếp nhận. Điều này không chỉ bao gồm nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng, mà còn cả quản trị tốt, hệ thống tài chính chín muồi và khả năng tương thích công nghệ giữa các doanh nghiệp nước ngoài và trong nước. Nếu không có những nền tảng này, FDI có thể thay thế các ngành công nghiệp địa phương, gia tăng bất bình đẳng và làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên - tất cả những điều này ngày càng rõ ràng ở Thái Lan. Ngược lại, phát triển kinh tế do địa phương dẫn dắt - dựa trên tinh thần khởi nghiệp, đổi mới và tính toàn vẹn của thể chế - có xu hướng tạo ra những kết quả toàn diện và bền vững hơn.
Cơ cấu quan liêu trì trệ của Thái Lan càng làm suy yếu vị thế của nước này. Quyền ra quyết định vẫn còn bị phân mảnh nghiêm trọng giữa các cơ quan. Nhiều cơ quan hoạt động như những lãnh địa riêng với các quy tắc và ưu tiên riêng. Sự phân mảnh này gây ra sự thiếu minh bạch, cản trở sự phối hợp và hạn chế giám sát. Sự trì trệ của thể chế, được củng cố bởi các mạng lưới bảo trợ cố hữu, gây khó khăn cho việc gắn kết đầu tư nước ngoài với các mục tiêu phát triển quốc gia. Sự thiếu minh bạch trong mua sắm, cấp phép và phê duyệt dự án không chỉ làm gia tăng tình trạng trục lợi mà còn ngăn cản các nhà đầu tư dài hạn có trách nhiệm.
Việc bùng nổ xung đột với Campuchia đã làm xói mòn thêm niềm tin của nhà đầu tư, đẩy nhanh một xu hướng vốn đã đáng lo ngại. Từng là nguồn vốn chính cho động lực kinh tế của đất nước, FDI của Thái Lan đang trên đà suy giảm, và xung đột này đã làm sâu sắc thêm nhận thức về rủi ro khu vực. Bất ổn chính trị, lo ngại về an ninh và sự bất ổn ngày càng gia tăng hiện đang đặt ra những trở ngại nghiêm trọng cho dòng vốn đầu tư. Đối với một quốc gia từ lâu đã dựa vào FDI để thúc đẩy tăng trưởng và việc làm, sự mong manh lâu dài của mô hình phát triển của nước này ngày càng trở nên rõ ràng.
Hậu quả kinh tế trước mắt là khá rõ ràng. Theo số liệu chính thức, thương mại song phương giữa Thái Lan và Campuchia đạt tổng cộng 28,72 tỷ baht vào tháng 6/2025, giảm 9,5% so với cùng kỳ năm ngoái.
Xuất khẩu của Thái Lan sang Campuchia đạt 25,60 tỷ baht, giảm 11,2%, chủ yếu do lượng dầu diesel xuất khẩu giảm 7,4% và các sản phẩm dầu mỏ tinh chế khác giảm 33,3% sau khi Campuchia cấm nhập khẩu nhiên liệu từ Thái Lan.
Chuỗi cung ứng bị gián đoạn, chi phí hậu cần tăng vọt. Một số nhà máy phải đóng cửa và du lịch ở các khu vực biên giới giảm mạnh. Trong khi mặt trận quân sự vẫn còn bất ổn, những hậu quả kinh tế đã hiện rõ - và vô cùng đáng lo ngại. Nếu không có một phản ứng táo bạo và chiến lược, cuộc khủng hoảng hiện tại có nguy cơ trở nên trầm trọng hơn và suy thoái lâu dài.
Tuy nhiên, trong cuộc khủng hoảng này ẩn chứa một cơ hội hiếm có để quốc gia tự tính toán. Thái Lan không được phép quay lại với lối sống cũ. Đã đến lúc chúng ta cần xem xét lại mô hình phát triển của mình, một mô hình đưa chúng ta vượt qua sự phụ thuộc và hướng tới khả năng phục hồi, tự lực cánh sinh và thịnh vượng chung.
Trước hết, việc xây dựng lại niềm tin của nhà đầu tư đòi hỏi phải khôi phục ổn định chính trị, đảm bảo tính minh bạch và xây dựng tầm nhìn kinh tế quốc gia mạch lạc. FDI không còn nên được theo đuổi bằng mọi giá mà cần được điều chỉnh chiến lược phù hợp với các ưu tiên quốc gia - thúc đẩy chuyển giao công nghệ, phát triển kỹ năng và các mô hình đầu tư do người dân làm chủ. Nếu khả thi, cần đưa ra các cơ chế cho phép cộng đồng, hợp tác xã và nhà đầu tư địa phương cùng đầu tư vào các dự án nước ngoài, đảm bảo lợi ích của sự phát triển được chia sẻ rộng rãi hơn và chịu sự giám sát dân chủ.
Phục hồi sau xung đột phải tập trung vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật số, công nghệ xanh và an ninh lương thực để xây dựng khả năng phục hồi và giá trị lâu dài. Thái Lan phải vượt ra ngoài các chính sách hiện hành bằng cách tăng cường hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) và mở rộng đầu tư vào các tỉnh biên giới để đạt được tăng trưởng thực sự bao trùm. Tương lai của Thái Lan không phụ thuộc vào sự phụ thuộc thụ động vào vốn nước ngoài mà phụ thuộc vào việc định hình đầu tư để phục vụ lợi ích quốc gia. Với ý chí chính trị và cải cách, cuộc khủng hoảng này có thể trở thành bước ngoặt hướng tới một tương lai công bằng và vững mạnh hơn./.