Cần đưa những kết quả nghiên cứu ứng dụng vào thực tiễn
30/07/2025 15:25:09
1 lượt xem
Thời sự trong nước
Cần đưa những kết quả nghiên cứu ứng dụng vào thực tiễn
Hà Nội (TTXVN 30/7)
Những năm gần đây, các nhà khoa học thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (Viện Hàn lâm) rất coi trọng việc nghiên cứu ứng dụng. Hàng năm, bên cạnh hàng trăm đề tài, dự án được chuyển giao phục vụ các ngành kinh tế, công nghiệp, bảo vệ môi trường, các nhà khoa học đã có nhiều kết quả nghiên cứu thiết thực phục vụ công tác chăm sóc sức khoẻ, bảo vệ con người. Mặc dù đã có cơ chế nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong việc đưa những kết quả nghiên cứu vào thực tiễn, thế nhưng việc triển khai trên thực tế vẫn còn gặp vướng mắc.
*Những kết quả nghiên cứu khoa học ứng dụng thiết thực Từ thực trạng hàng năm số người mắc tiểu đường ở nước ta ngày càng tăng, hiện có khoảng 7 triệu người mắc tiểu đường, trong đó có khoảng 55% số người bệnh đã bị biến chứng. Từ thực tiễn đó, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Phi Hùng và các cộng sự tại Viện Hóa học, thuộc Viện Hàn lâm đã triển khai nhiệm vụ: “Nghiên cứu quy trình sản xuất chế phẩm, định hướng hỗ trợ điều trị tiểu đường từ cây vông nem”.
Cây Vông nem có tên khoa học là Erythrina variegate L., tại một số địa phương, cây còn được gọi là cây vông, hải đồng bì, thích đồng. Cây được trồng làm hàng rào, cây cảnh, lấy lá ăn hoặc kết hợp với một số cây thuốc để chữa suy nhược thần kinh, hạ huyết áp, an thần, mất ngủ, ra mồ hôi trộm ở trẻ em... Một trong những hoạt tính nổi trội của loài này là an thần, ức chế sự phát triển của khối u, kháng viêm và nhất là tác dụng kích hoạt hoạt lực enzyme AMPK để điều trị các bệnh về rối loạn chuyển hóa như đường huyết, mỡ máu, béo phì…
Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Phi Hùng, nhóm nghiên cứu đã xây dựng quy trình chiết xuất tạo cao bán thành phẩm từ cây Vông nem và các cao bổ sung chứa thành phần các hoạt chất quý từ giảo cổ lam, dây thìa canh, vàng đắng và nghệ vàng. Sau đó, phối kết hợp các hoạt chất của các dược liệu này để bào chế ra chế phẩm TĐ-VN (chế phẩm tiểu đường-vông nem) dạng viên nang cứng.
Kết quả thử nghiệm trên mô hình động vật thực nghiệm cho thấy, sử dụng chế phẩm với liều 350 mg/kg/ngày kết hợp Streptozocin liều thấp, có tác dụng tăng sản sinh insulin và hạ đường huyết trên chuột cống trắng gây đái tháo đường type 2. Ngoài ra, chế phẩm còn giúp cải thiện các triệu chứng và hạn chế biến chứng của bệnh đái tháo đường như: Giảm tình trạng tổn thương tụy, suy thận. Những tác dụng của chế phẩm này tương đương thuốc gliclazid (thuốc điều trị tiểu đường) với liều dùng 20 mg/kg/ngày và có độ an toàn cao, không gây tác dụng phụ khi sử dụng. Kết quả nghiên cứu được Hội đồng nghiệm thu nhiệm vụ cấp Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam đánh giá đạt loại xuất sắc.
*Động lực để thương mại hóa kết quả nghiên cứu Không chỉ riêng nghiên cứu chế phẩm hỗ trợ điều trị tiểu đường từ cây Vông nem, mà các nhà khoa học thuộc Viện Hàn lâm cũng đã có rất nhiều công trình nghiên cứu rất thiết thực như: Sản phẩm chiết xuất tự nhiên, có tác dụng hỗ trợ chống rối loạn lipid máu, do Tiến sĩ Nguyễn Thị Mai Hương và nhóm nghiên cứu Trung tâm Vật lý ứng dụng và Thiết bị khoa học - Viện Vật lý - Viện Hàn lâm đã thực hiện; hay là một hoạt chất quý hiếm được chiết xuất từ cây Tùng đỏ vùng Siberia, kết hợp với công nghệ nano hiện đại cũng đã được Tiến sĩ Nguyễn Thị Mai Hương cùng nhóm nghiên cứu Trung tâm Vật lý ứng dụng và Thiết bị khoa học, Viện Vật lý thuộc Viện Hàn lâm phát triển thành công thành sản phẩm Nano Dihydroquercetin, giải pháp mới giúp phòng ngừa và hỗ trợ điều trị rối loạn lipid máu, bảo vệ tim mạch, gan và cải thiện tuần hoàn máu não. Mới đây, Giáo sư, Tiến sĩ Ngô Quốc Anh và các cộng sự tại Viện Hóa học, Viện Hàn lâm đã nghiên cứu, ứng dụng thành công gel chữa cháy đa năng. Đây là sản phẩm thuộc hợp phần nghiên cứu “Công nghệ chế tạo gel chữa cháy hiệu quả thế hệ mới, đa năng, thân thiện môi trường”, thuộc Đề án Khoa học và Công nghệ trọng điểm cấp Viện Hàn lâm....
Rõ ràng những kết quả nghiên cứu ứng dụng gần đây của các nhà khoa học rất thiết thực. Mặc dù đã có cơ chế nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong việc đưa những kết quả nghiên cứu vào thực tiễn, thế nhưng việc triển khai trên thực tế vẫn còn gặp vướng mắc.
Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Phi Hùng, Viện Hóa học, thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, để kết quả nghiên cứu có thể thương mại hóa hiệu quả trên thị trường, cần có một hệ sinh thái đồng bộ và sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà nước, nhà khoa học và doanh nghiệp. Trong đó, cần hoàn thiện khung pháp lý và cơ chế chính sách như: Xác lập rõ quyền sở hữu kết quả nghiên cứu (tổ chức, cá nhân, nhà nước…) để tạo động lực cho việc khai thác thương mại. Bên cạnh đó có cơ chế định giá kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ minh bạch, tránh định giá “0 đồng” hoặc quá cao, gây cản trở chuyển giao. Cùng với đó phải đổi mới cơ chế tài chính, cho phép linh hoạt sử dụng vốn từ các nguồn xã hội hóa, hỗ trợ chia sẻ rủi ro khi thương mại hóa công nghệ.
Việc gắn kết chặt chẽ giữa nhà khoa học và doanh nghiệp, phát triển năng lực thương mại hóa trong viện nghiên cứu, trường đại học cần được cụ thể hóa rõ ràng. Cùng với đó, để đưa những kết quả nghiên cứu vào thực tiễn cần tăng cường sự hỗ trợ từ nhà nước và môi trường khuyến khích đổi mới sáng tạo.
“Thương mại hóa kết quả nghiên cứu không chỉ là vấn đề kỹ thuật hay pháp lý, mà là một quá trình phối hợp liên ngành đòi hỏi tầm nhìn chiến lược và sự liên kết thực chất giữa nhà nước, viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp. Khi có cơ chế tốt, hạ tầng hỗ trợ đầy đủ và động lực rõ ràng, thì kết quả nghiên cứu khoa học mới thực sự đi vào cuộc sống, tạo giá trị kinh tế – xã hội rõ rệt”, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Phi Hùng nhấn mạnh.
Theo Giáo sư, Tiến sĩ Ngô Quốc Anh, Viện trưởng Viện Hóa học, Viện Hàn lâm, nhiệm vụ trọng tâm của Viện Hóa học là nghiên cứu, phát hiện các chất có hoạt tính sinh học từ nguồn thực vật và sinh vật biển, nhằm xây dựng cơ sở dữ liệu và phục vụ khai thác bền vững tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam. Hướng đi này tới đây không chỉ phát huy thế mạnh truyền thống mà còn giải quyết các vấn đề cấp bách của xã hội như tình trạng kháng kháng sinh toàn cầu và nhu cầu dược phẩm mới cho dân số già hóa. Nguồn tài nguyên sinh vật đa dạng của Việt Nam cũng chính là một "mỏ vàng" chứa đựng các cấu trúc hóa học độc đáo.
"Chúng tôi sẽ ưu tiên các chương trình tìm kiếm kháng sinh thế hệ mới nhằm đối phó với thách thức này. Để có thể đưa những nghiên cứu vào thực tiễn, triển khai rộng rãi, cũng như thương mại hóa kết quả nghiên cứu thì rất cần sự hỗ trợ, vào cuộc mạnh mẽ từ các cơ quan chức năng, các cơ quan chuyên môn, cùng các cơ chế chính sách cụ thể, rõ ràng", Tiến sĩ Ngô Quốc Anh chia sẻ.
Trước đây việc đưa kết quả nghiên cứu vào thực tiễn thường gặp một số khó khăn như: Cơ chế sở hữu trí tuệ chưa rõ ràng, sở hữu nhà nước, tổ chức hay cá nhân chưa có sự rõ ràng. Đồng thời thiếu cơ chế định giá kết quả nghiên cứu dẫn đến khó khăn trong chuyển giao. Một trong những khó khăn hạn chế nữa là cơ chế tài chính. Cơ chế tài chính cứng nhắc, chưa linh hoạt trong việc sử dụng kinh phí từ các nguồn xã hội hóa hoặc phối hợp công, tư.
Sau khi Nghị quyết số 193/2025/QH15 của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia được ban hành nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách để thúc đẩy phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, trong đó nhấn mạnh đến việc thương mại hóa kết quả nghiên cứu, đây được cho là một trong những khâu yếu và tồn tại kéo dài trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo ở Việt Nam. Tuy nhiên, theo các nhà khoa học, để đạt hiệu quả cao thì cần cụ thể hóa các cơ chế, rõ ràng và chi tiết hơn./.
Quyết Chiến