Kinh tế thế giới

Nghịch lý trong ngành công nghệ Nhật Bản

03/08/2025 16:36:47
1 lượt xem
Chia sẻ:
Nghịch lý trong ngành công nghệ Nhật Bản

Nghịch lý trong ngành công nghệ Nhật Bản Hà Nội (TTXVN 3/8) Ngành công nghệ thông tin (CNTT) của Nhật Bản đã trải qua mức giảm năng suất lao động mạnh nhất trong số các thành viên Nhóm các nước công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới (G7) từ năm 2019 đến năm 2023, do lực lượng lao động ngày càng tăng của ngành này không mang lại tăng trưởng lợi nhuận tương ứng. Theo Trung tâm Năng suất Nhật Bản, năng suất lao động sau khi điều chỉnh theo lạm phát của ngành, được đo bằng giá trị gia tăng tạo ra trên mỗi nhân viên, đã giảm 13% trong bốn năm tính đến năm 2023 tính theo đồng yen. Giá trị gia tăng được định nghĩa là doanh thu trừ đi chi phí hàng hóa và dịch vụ được sử dụng trong sản xuất. Ngược lại, năng suất lao động ở Mỹ tăng 27% và ở Anh tăng 9%, tính theo đồng nội tệ. Trong số ba quốc gia G7 ghi nhận mức giảm, chỉ có Nhật Bản ghi nhận mức giảm hai chữ số. "Ngành CNTT được kỳ vọng sẽ đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy chuyển đổi số của Nhật Bản, nhưng năng suất của ngành vẫn còn thấp", Yasuhiro Kiuchi, nhà nghiên cứu chính cấp cao tại viện nghiên cứu phi lợi nhuận ở Tokyo, cho biết. Các công ty CNTT Nhật Bản như Fujitsu, NEC và NTT Data Group thường phát triển các hệ thống cho khách hàng như nhà sản xuất và cơ quan chính phủ. Các công ty CNTT này đã mở rộng lực lượng lao động để ứng phó với sự gia tăng đầu tư của doanh nghiệp vào công nghệ số, chẳng hạn như hội nghị trực tuyến, trong thời gian đại dịch. Tuy nhiên, giá trị gia tăng mà ngành này tạo ra chỉ tăng 5% trong cùng kỳ, so với mức tăng 39% ở Mỹ và 12% ở Đức. Sự tăng trưởng chậm chạp này phần lớn là do quá trình chuyển đổi chậm trễ sang điện toán đám mây và các dịch vụ kỹ thuật số tiên tiến khác của Nhật Bản. Tại Nhật Bản, các nhà bán lẻ, nhà sản xuất và các doanh nghiệp khác thường thuê ngoài việc phát triển hệ thống cho các công ty CNTT. Theo Cơ quan Xúc tiến Công nghệ Thông tin (IPA), Nhật Bản, các công ty công nghệ sử dụng khoảng 74% kỹ sư CNTT của đất nước. Họ thường xây dựng các hệ thống được thiết kế riêng cho từng khách hàng, một quy trình đòi hỏi nhiều nhân lực và thường xuyên phải cử kỹ sư đến tận nơi để quản lý vận hành và hỗ trợ. Tại Mỹ và các quốc gia khác, nơi dịch vụ đám mây đã được áp dụng rộng rãi, các kỹ sư nội bộ tại các công ty khách hàng như Nike và Walmart cấu hình hệ thống bằng các thành phần dựa trên đám mây được tiêu chuẩn hóa từ các nhà cung cấp như Adobe và Amazon Web Services. Phương pháp này cho phép các công ty CNTT tập trung vào việc phát triển phần mềm và tối ưu hóa hệ thống liên tục, đồng thời mở rộng quy mô hoạt động hiệu quả hơn. Kết quả là, các doanh nghiệp CNTT của Mỹ và châu Âu đã phát triển phần mềm tiên tiến nhanh hơn nhiều so với các đối tác Nhật Bản, nhiều doanh nghiệp trong số đó đang ngày càng phụ thuộc vào các sản phẩm kỹ thuật số do nước ngoài sản xuất. Sự phụ thuộc này được phản ánh trong thâm hụt kỹ thuật số của Nhật Bản, do chi phí cho các dịch vụ đám mây và công nghệ kỹ thuật số nước ngoài ngày càng tăng. Theo cán cân thanh toán của quốc gia này, mức thâm hụt này đã tăng hơn gấp ba lần trong thập kỷ tính đến năm 2024, đạt mức cao kỷ lục 6.700 tỷ yen (45 tỷ USD), vượt qua mức thâm hụt thương mại 5.470 tỷ yen của Nhật Bản trong cùng năm. Theo nhà cung cấp dịch vụ nhân sự Human Resocia có trụ sở tại Tokyo, số lượng chuyên gia CNTT tại Nhật Bản dự kiến sẽ đạt đỉnh 1,56 triệu vào năm 2035. Khi lực lượng lao động bắt đầu thu hẹp, việc duy trì các hoạt động thâm dụng lao động sẽ ngày càng trở nên khó khăn. Để ứng phó với tình trạng này, nhiều công ty dự kiến sẽ áp dụng công nghệ AI để tăng năng suất và duy trì khả năng cạnh tranh. Một số doanh nghiệp đã bắt đầu triển khai những thay đổi này. Ví dụ, NTT Data có kế hoạch tích hợp AI tạo sinh vào toàn bộ quy trình phát triển hệ thống cho khách hàng, với mục tiêu cải thiện hiệu quả thêm 20% cho mỗi nhân viên./. Nguyễn Tuyến (P/v TTXVN tại Tokyo)

Tin liên quan