“Yếu tố Mỹ” trong mối quan hệ bấp bênh Trung Quốc-Ấn Độ
05/09/2025 09:00:50
6 lượt xem
Tin nhanh tham khảo
“Yếu tố Mỹ” trong mối quan hệ bấp bênh Trung Quốc-Ấn Độ
TTXVN (Sydney 4/9)
Theo bài viết của tác giả R. N. Prasher, cựu Cố vấn chính cho lãnh đạo bang Haryana của Ấn Độ - trên Tạp chí “The Interpreter” của Viện Lowy (Australia) ngày 2/9, những căng thẳng giữa Ấn Độ và Mỹ hay mối quan hệ thân thiết New Delhi-Bắc Kinh không phải là vấn đề mới hay di sản lịch sử. Và mối quan hệ giữa các quốc gia này có “sức nặng” lớn hơn tính cách của các nhà lãnh đạo đương thời.
Bất chấp những đồn đoán ồn ào về mối quan hệ giữa một bên là Tổng thống Donald Trump và Thủ tướng Narendra Modi, một bên là Thủ tướng Modi và Chủ tịch Tập Cận Bình, trên thực tế không có gì mới về những diễn biến hiện tại giữa hai cặp quốc gia này. Lịch sử quan hệ hiện đại giữa Ấn Độ, Trung Quốc và Mỹ đã là một chuỗi liên tục của những mối quan hệ luôn thay đổi: lúc thân thiết, lúc căng thẳng.
Việc Thủ tướng đầu tiên của Ấn Độ Jawaharlal Nehru công khai thể hiện tình cảm với chủ nghĩa xã hội, dù bản thân ông là một người khá quý tộc, đã giúp New Delhi thắt chặt mối quan hệ không chỉ với Liên Xô mà còn với các quốc gia khác có xu hướng chống Mỹ. Những người bạn thân thiết nhất của Nehru trong Phong trào Không liên kết là Gamal Abdel Nasser của Ai Cập và Thống chế Josip Broz Tito của Nam Tư, cả hai người đều là kẻ thù không đội trời chung của cái mà những người cộng sản thời đó gọi là “chủ nghĩa đế quốc phương Tây” và do đó, họ ít nhiều đều liên kết với Liên Xô. Ông Nasser đã cảnh giác với Hiệp ước Baghdad do Mỹ dẫn đầu, được thiết kế để kiềm chế ảnh hưởng của Liên Xô ở Trung Đông. Tuy nhiên, ông Nasser lại xem đây là một nỗ lực của Mỹ và Anh nhằm chuyển trung tâm quyền lực chính trị của khu vực từ Cairo sang Baghdad, nên đã từ chối tham gia. Ông Tito từng phải tìm kiếm sự giúp đỡ của Mỹ vào năm 1949 khi bị Liên Xô đe dọa nhưng ông vẫn giữ vững con đường xã hội chủ nghĩa. Cả hai đều bị nhìn nhận là những nhà độc tài, một quan điểm mà những người chỉ trích ông Nehru cũng dành cho ông.
Khi Trung Quốc xâm lược Ấn Độ vào năm 1962, Liên Xô cảm thấy Ấn Độ đang bị đẩy về phía “chủ nghĩa tư bản” của Mỹ và Anh, những quốc gia bắt đầu cung cấp vũ khí cho Ấn Độ, đe dọa vị thế độc quyền trước đó của Nga. Bộ trưởng Quốc phòng Ấn Độ khi đó là Krishna Menon, một người ủng hộ ngầm chủ nghĩa cộng sản và có thiện cảm với Liên Xô, đã bị buộc tội “mềm mỏng” với người Trung Quốc và bị buộc phải từ chức. Liên Xô đã than vãn rằng “chúng tôi đã mất đi một trong những người bạn trung thành nhất trong số các nhà lãnh đạo Ấn Độ”.
Hướng đi xã hội chủ nghĩa của Ấn Độ không chấm dứt sau khi ông Nehru qua đời vào năm 1964. Sau cuộc chiến năm 1965 giữa Ấn Độ và Pakistan, Liên Xô đóng vai trò trung gian hòa giải giữa hai quốc gia này. Hiệp ước Tashkent, với sự dàn xếp của Thủ tướng Liên Xô khi đó là Aleksey Kosygin, đã được ký kết vào ngày 10/1/1966. Chỉ vài giờ sau đó, Thủ tướng Ấn Độ Lal Bahadur Shastri đã qua đời ngay trên đất Liên Xô. Các thuyết âm mưu vẫn tiếp tục lan truyền, trong đó những người chỉ trích ông Nehru đã chĩa mũi dùi vào con gái ông, bà Indira Gandhi, người sau đó nhanh chóng kế nhiệm ông Shastri làm thủ tướng.
Những sự kiện này hoàn toàn trái ngược với phản ứng dữ dội hiện nay ở Ấn Độ trước việc Donald Trump liên tục khẳng định mình đã làm trung gian cho một thỏa thuận ngừng bắn giữa hai quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân vào ngày 10/5 vừa qua. Rõ ràng, Ấn Độ đã tự nhìn nhận mình một cách khác biệt sau 6 thập kỷ.
Vào tháng 12/1971, trong cuộc đấu tranh giành độc lập của Bangladesh, được lực lượng vũ trang Ấn Độ tích cực hỗ trợ, Mỹ và Anh đã đứng về phía Pakistan. Washington đã điều Hạm đội Đặc nhiệm 74 do tàu sân bay chạy bằng năng lượng hạt nhân USS Enterprise dẫn đầu tới Vịnh Bengal để đe dọa Ấn Độ. Liên Xô đã nhanh chóng điều động các lực lượng hải quân của mình, bao gồm cả tàu ngầm hạt nhân, buộc hạm đội Mỹ và Anh phải rút lui. Liên Xô đã 6 lần “giải cứu” Ấn Độ từ năm 1957 đến 1971 về các vấn đề Kashmir, Goa và Chiến tranh Bangladesh bằng cách sử dụng quyền phủ quyết tại Hội đồng Bảo an khi các thành viên thường trực khác chống Ấn Độ. Việc New Delhi từ chối lên án Moskva trong cuộc xung đột Ukraine và lập trường của Ấn Độ về việc mua dầu của Nga cần được nhìn nhận dưới góc nhìn lịch sử chiến lược của Nga hỗ trợ Ấn Độ khi Mỹ đứng về phía Pakistan.
Hòa hợp với lập trường xã hội chủ nghĩa của mình, Nehru đã cố gắng lôi kéo Trung Quốc. Có những dấu hiệu cho thấy khi có cuộc thảo luận về việc trao một ghế thường trực trong Hội đồng Bảo an cho Ấn Độ, Nehru đã đề xuất rằng nó nên được trao cho Trung Quốc. Cuộc xâm lược Tây Tạng của Trung Quốc vào năm 1950 đã dẫn đến việc Đạt Lai Lạt Ma bí mật trốn sang Ấn Độ. Nehru đã cho ông này tị nạn vì lý do chính trị trong nước;
ông đã lôi kéo thành công các tầng lớp bị áp bức, và cho đến tận ngày nay, họ vẫn là một nhóm quan trọng ủng hộ Đảng Quốc đại, mà cha đẻ của ông là Motilal từng 2 lần làm Chủ tịch (giai đoạn 1919 và 1928). Nhiều người thuộc các tầng lớp bị áp bức này, được Gandhi gọi là Harijans hay “Người của Chúa” đã chuyển sang đạo Phật, theo sự thúc đẩy của nhà lãnh đạo uy tín của họ là Ambedkar.
Điều này chắc chắn đã ảnh hưởng đến Nehru khi ông cho Đạt Lai Lạt Ma và những người đi theo ông tị nạn, khiến Trung Quốc phản đối. Mao Trạch Đông vẫn luôn treo trước mắt một Bộ 5 nguyên tắc có tên là “Ấn Độ Panchsheel” - bao gồm: tôn trọng lẫn nhau về chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không xâm lược lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, và cùng tồn tại hòa bình. Tuy nhiên, Mao Trạch Đông dần mất quyền kiểm soát do nạn đói lớn (từ năm 1959 đến 1961) và ông cần một “sự phân tâm” - chuyển hướng sự chú ý của dư luận và củng cố quyền lực. Điều này đã dẫn đến cuộc xâm lược Ấn Độ vào năm 1962 của Trung Quốc và việc Ấn Độ mất 38.000 km2 lãnh thổ.
Tóm lại, chúng ta có thể thấy rằng Mỹ và Ấn Độ, mặc dù giao thương rộng rãi với nhau và thường ca ngợi nhau là những “nền dân chủ đồng hành”, nhưng lại thường xuyên đứng ở hai phía đối lập về mặt chiến lược. Trong khi đó, Pakistan, một quốc gia thường xuyên là một chế độ độc tài quân sự, lại thường xuyên nhận được sự ủng hộ của Mỹ. Ấn Độ và Trung Quốc, với lịch sử lâu dài về các mối liên hệ tôn giáo, văn hóa và thương mại, cùng những thập kỷ xung đột và hòa giải gần đây, vẫn là những láng giềng đối đầu./.